Thiết kế và chế tạo I-12_(tàu_ngầm_Nhật)

Thiết kế

Type A2 là một phiên bản của Type A1 với động cơ diesel công suất yếu hơn nhằm rút ngắn thời gian đóng tàu. I-12 là chiếc duy nhất thuộc phân lớp Type A Cải tiến 1 (Type A2) được hoàn tất, những chiếc tiếp theo được đóng theo thiết kế cải biến như là Type AM. Giống như Type A1 dẫn trước, I-12 được trang bị để hoạt động như soái hạm của hải đội tàu ngầm.[4] Nó có trọng lượng choán nước 2.981 tấn (2.934 tấn Anh) khi nổi và 4.239 tấn (4.172 tấn Anh) khi lặn,[1] lườn tàu có chiều dài 113,7 m (373 ft 0 in), mạn tàu rộng 11,7 m (38 ft 5 in) và mớn nước sâu 5,89 m (19 ft 4 in).[1] Con tàu có thể lặn sâu đến 100 m (328 ft),[4] và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 114 sĩ quan và thủy thủ.[1]

Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.22 Model 10 công suất 4.700 mã lực phanh (3.505 kW),[1] mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện công suất 1.200 mã lực (895 kW).[1] Khi di chuyển trên mặt nước nó đạt tốc độ tối đa 17,5 hải lý trên giờ (32,4 km/h; 20,1 mph) và 6,2 hải lý trên giờ (11,5 km/h; 7,1 mph) khi lặn dưới nước,[5] tầm xa hoạt động 22.000 hải lý (41.000 km; 25.000 mi) ở tốc độ 16 hải lý trên giờ (30 km/h; 18 mph),[1] và có thể lặn xa 75 nmi (139 km; 86 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[6]

I-12 có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), tất cả được bố trí trước mũi, và mang theo tổng cộng 18 quả ngư lôi Kiểu 95.[1] Vũ khí trên boong tàu bao gồm khẩu hải pháo 14 cm (5,5 in),[1][2] và hai khẩu pháo phòng không 25 mm Type 96 nòng đôi.[6] Giống như Type A1, hầm chứa máy bay của Type A2 được tích hợp vào tháp chỉ huy và hướng ra phía trước. Máy phóng máy bay được bố trí hướng ra phía trước, trong khi khẩu hải pháo trên boong đặt phía sau. Cách sắp xếp này giúp chiếc thủy phi cơ Yokosuka E14Y tận dụng tốc độ hướng ra trước của con tàu khi được phóng lên.[6]

Chế tạo

I-12 được đặt lườn như là chiếc Tàu ngầm số 620 tại xưởng tàu của hãng KawasakiKobe vào ngày 5 tháng 11, 1942.[3][7] Nó được đổi tên thành I-12 vào ngày 5 tháng 7, 1943,[3][7] rồi được hạ thủy vào ngày 3 tháng 8, 1943,[3][7] rồi hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 25 tháng 5, 1944,[3][7] dưới quyền chỉ huy của Trung tá Hải quân Kaneo Kudo.[3]